du lịch và di tich

Đình làng thôn An Lạc và sự tích Thành Hoàng
Ngày đăng 26/04/2024 | 06:49  | Lượt truy cập: 198

I. Đình thôn An Lạc

1. Thời gian phục dựng đình

Đình thôn An Lạc thuộc xã Trung Giã, huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội là một ngôi đình có từ rất lâu đời, do ngôi đình cổ không còn nữa nên chưa có căn cứ xác định chính xác thời điểm dựng đình. Theo lời kể của dân làng, ngôi đình đã được di chuyển một số lần, lần cuối cùng được dựng ở một doi đất lớn ( nhìn trên bản đồ trông giống như mỏ 1 con chim Phượng Hoàng) nằm gần Sông Cầu ở cách không xa khu tiếp giáp với Sông Công.

Do biến đổi của dòng chảy sông Cầu, nước làm lở đất ven sông lấn vào khu vực làm ngôi đình của thôn An Lạc bị sụp đổ xuống sông cách đây mấy chục năm. Do những khó khăn gây ra bởi chiến tranh, thời tiết và tiếp đó phải kể đến là đời sống kinh tế - xã hội thời kỳ bao cấp đã khiến nhân dân địa phương chưa có điều kiện để tiến hành xây dựng lại ngôi đình.

Đến năm 2014, với sự nỗ lực của các vị bô lão, sự đồng thuận của nhân dân trong thôn, sự ủng hộ của chính quyền địa phương và sự phát tâm đóng góp tài chính của một số cơ sở kinh doanh, các cá nhân là con em của quê hương An Lạc cùng thập phương công đức, ngôi đình An Lạc đã được xây dựng lại trong niềm hân hoan, vui mừng của nhân dân.

Hình ảnh Đình An Lạc - xã Trung Giã

Hình ảnh Nhà bia tưởng niệm các Anh hùng Liệt Sỹ thôn An Lạc

Hình ảnh nhà bia tưởng niệm cụ Nguyễn Cảnh Ninh

2. Quy mô kiến trúc đình

Cổng đình có trụ cột và cánh cổng theo phong cách bình dị, từ cổng đi vào qua một khoảng sân rộng là đến gian thờ chính. Hai bên gian thờ chính (nhìn từ ngoài vào) là hai lầu bia chồng diêm 2 mái, bên trái là lầu bia thờ các anh hùng liệt sĩ của thôn; bên phải là lầu bia thờ một tấm bia đá cổ được tạo dựng vào niên hiệu Cảnh Hưng nguyên niên (1740) đời vua Lê Hiển Tông.

Gian thờ chính của Đình cũng là trung tâm thực hành tín ngưỡng thờ cúng, nơi mà người dân An Lạc thể hiện thành kính của mình với vị Phúc thần Thành Hoàng Đại Vương. Gian thờ có diện tích 20m2, có hai mái chồng diêm, đầu chính đao đắp đầu rồng, hai bên có hai trụ đắp câu đối; chính giữa có biển đắp 4 chữ “Đình An Lạc thôn”; phía trên cao nhất của mái đình ở giữa đắp mặt trời (bên trong hình bát quái), hai bên đắp hình Si Vẫn (Si Vẫn theo truyền thuyết là con thứ hai của Rồng, sống ở biển, có đầu giống hoặc gần như đầu rồng, đuôi, vây và miệng rất to. Mỗi khi nó đập đuôi xuống nước thì nước bắn lên tận trời. Nên dân gian quan niệm đắp Si Vẫn trên mái các công trình để chống hỏa hoạn).

Trong gian thờ chính của đình, có treo một bức hoành phi bằng gỗ khắc 4 chữ: “Vạn cổ anh linh”; ở vị trí trang trọng nhất là ngai thờ, trên ngai đặt bài vị đức Thành Hoàng (hiện bài vị để trống chưa có chữ).

3. Di vật, tài liệu cổ liên quan đến đình thôn An Lạc.

Do những biến động của thời gian và xã hội nên tất cả các di vật cổ liên quan đến đình An Lạc đều bị hư hỏng, mất mát. Hiện tại trong khu vực của đình, di vật cổ nhất là tấm bia đá có niên đại năm 1740 đời Hậu Lê, tuy nhiên căn cứ vào nội dung thì tấm bia này không phải là di vật của đình mà là di vật của chùa.

Trong quá trình tìm hiểu, sưu tập tư liệu về Đình thôn An Lạc, chúng tôi đã tìm được trong thư viện của Viện Thông tin khoa học xã hội 02 tư liệu gồm:

- Bản khai thần tích, thần sắc bằng chữ Quốc ngữ do Hương lý thôn An Lạc thực hiện theo yêu cầu của Viện Viễn Đông Bác cổ.

- Tập thần tích, thần sắc (Chữ Hán) gồm nội dung thần tích về Thành Hoàng thôn An Lạc và nội dung 02 bản sắc phong cho thần.

Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu về nội dung 02 bản sắc phong được ban dưới triều vua Khải Định nhà Nguyễn vào các năm 1917 và năm 1924 cho thôn An Lạc (Khi đó thuộc tổng Trung Giã, phủ Đa Phúc, tỉnh Phúc yên) do nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Tố Lưu phiên âm và dịch nghĩa:

Sắc 1:

Phiên Âm

Sắc Phúc Yên tỉnh Đa Phúc huyện An Lạc xã phụng sự Tam Giang khước định tôn thần hộ quốc tý dân nhẫm trữ linh ứng, tứ kim phi thừa cảnh mệnh, miễn niệm thần hưu, phong vi Trác vĩ Dực bảo Trung hưng thượng đẳng thần, chuẩn kỳ phụng sự, thứ kỷ thần kỳ hữu, bảo ngã lê dân.

Khâm tai.

Khải Định nhị niên tam nguyệt thập bát nhật.

Dịch nghĩa

Sắc cho An lạc, huyện Đa Phúc, tỉnh Phúc Yên phụng thờ Tam Giang khước định tôn thần, giúp nước hộ dân có nhiều linh ứng. Nay theo mệnh lớn, nhớ tới công thần mà phong là Trác vĩ Dực bảo Trung hưng thượng đẳng thần, chuẩn cho việc thờ phụng, để thần giúp mọi việc lớn nhỏ, bảo vệ cho con dân ta.

Kính thay.

Khải Định năm thứ 2 tháng 3 ngày 18(1917).

Sắc 2:

Phiên âm

Sắc Phúc Yên tỉnh Đa Phúc huyện An Lạc xã tòng tiền phụng sự Tam Giang khước định tôn thần, nguyên tặng An nghĩa Chương linh Hiển liệt Tinh trung Trắc vĩ Dực bảo trung hưng Thượng đẳng thần, hộ quốc tý dân nhẫm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp sắc phong, chuẩn hứa phụng sự, chuẩn hứa phụng sự, tứ kim chính trị trẫm tứ tuần đại khánh tiết, kinh ban bảo chiếu đầm ân, lễ long đặng trật, đặc chuẩn y cựu phụng sự, dụng chí quốc khánh nhi thân tự điểm.

Khâm tai.

Khải Định cửu liên thất nguyệt nhi thập ngũ nhật.

Dịch nghĩa

Sắc cho An lạc, huyện Đa Phúc, tỉnh Phúc Yên theo như trước đây thờ phụng Tam Giang khước định tôn thần, nguyên tặng là An nghĩa Chương linh Hiển liệt Tinh trung Trắc vĩ Dực bảo trung hưng Thượng đẳng thần, giúp nước hộ dân có nhiều linh ứng, từng có ban cấp sắc phong, chuẩn cho thờ phụng. Nay đúng dịp khánh tiết trẫm bốn mươi tuổi mà ban chiếu báu thấm ơn, lễ lớn tăng thêm, đặc biệt chuẩn thao như cũ mà phụng thờ, nhân ngày quốc khánh mà đọc lại điển thờ.

Kính thay.

Khải Định năm thứ 9 tháng 7 ngày 15 (1924).

4. Việc thờ phụng Thành hoàng tại đình An Lạc

Thờ tại đình 01 vị Thành hoàng, thờ bằng bài vị kèm theo mũ, áo, hia.

Việc tế lễ chính ( tổ chức lễ hội): Được tổ chức vào hai ngày chính trong năm là ngày sinh của Thành Hoàng ( mồng 5 tháng giêng) và ngày hóa của Thành Hoàng ( ngày 10 tháng 4). Ngoài ra tế lễ vào Xuân, thu nhị kỳ, khi tổ chức lễ kỳ phúc…; người dân cũng có thể ra đình lễ riêng khi có việc cần cầu khấn.

- Lễ vật dâng cúng: Cũng bằng xôi, gà, hoa, quả…

II. Thành Hoàng thôn An Lạc

  1. Tóm lược sự tích Thành Hoàng làng thôn An Lạc

Thành Hoàng thôn An Lạc là Trương Hống, một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử và tín ngưỡng dân gian. Nơi thờ phụng ông có nhiều nơi, có nơi thờ riêng ông, có nơi thờ cùng với người em Trương Hát; có nơi thờ cả 5 anh em…

Thành Tam Giang là danh xưng chung để tôn vinh Trương Hống và người em là Trương Hát; danh xưng này cũng còn dùng để chỉ chung những người anh em khác của ngài là Trương Lừng, Trương Lẫy và Trương Đạm Nương.

Trương Hống quê làng Vân Mẫu ( nay là thôn Hai Vân, phường Vân Dương, thành phố Bắc Ninh, Tỉnh Bắc Ninh), truyền rằng mẹ ông tên là Phùng Từ Nhan, khi 18 tuổi, vào đêm rằm tháng 11 năm Canh Thìn ( 500)  bà nằm chiêm bao thấy Thần Long quấn mình trên sông Lục Đầu, sau đó thì mang thai.

Sau 14 tháng mang thai, ngày 05 tháng 1 năm Nhâm Ngọ (502) bà Phùng Từ Nhan lên chùa lễ Phật, khi về đến xứ Cửa Cữu, làng Vân Mẫu thì trở dạ, sinh ra một bọc 5 con. Do là con của thiên thần nên người mẹ lấy họ Trương là họ của Ngọc Hoàng Thượng Đế để đặt cho các con là Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy, Trương Đạm Nương và hết lòng chăm lo các con ăn học.

Năm anh em theo học Lã Tiên sinh người hương Chu Minh, Lộ Bắc Giang( nay là Hương Mạc, TP. Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), học đến đâu lầu thông kinh sử đến đấy, ngày ngày chăm chỉ đọc binh thư, siêng rèn võ nghệ, nên đều là những người tinh thông văn võ. Khi họ tròn 17 tuổi thì mẹ mất (ngày 15 tháng 4 âm lịch năm Kỷ Hợi – 519) 5 anh em lo tang lễ chu đáo, hiếu thảo thờ mẹ 3 năm.

Năm 545 vua Lương sai quân sang xâm lược nước ta, vua Lý Nam Đế đem quân chặn đánh nhưng vì thế yếu không cản được phải rút về miền núi đông Khuất Lão ( nay thuộc huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ) trao quyền cho tướng Triệu Quang Phục, rồi mất tại đó, Tướng Triệu Quang Phục đưa quân về đầm Dạ Trạch ( nay thuộc Hưng Yên) xưng là Triệu Việt Vương tổ chức đánh phục kích, đồng thời truyền hịch trong dân gian tìm người tài giỏi đánh giặc giúp nước.

Anh em Trương Hống nghe có hịch chiếu tài đã bàn nhau mộ quân để đi giúp nước; họ đi nhiều nơi làm tờ chiếu dụ nhân dân; Trương Hống từng qua địa phận thôn An Lạc hạ trại, nhiều trai tráng địa phương đã tòng quân theo. Khi anh em họ Trương kéo quân hưởng ứng, Triệu Việt Vương rất vui mừng đã phong Trương Hống làm thượng tướng quân, Trương Hát là phó tướng quân, Trương Lừng, Trương Lẫy làm tỳ tướng, Trương Đạm Nương làm hậu binh lương và thầy của họ là Lã tiên sinh làm quân sư lo kế sách đánh giặc.

Sau khi đánh đuổi giặc ngoại xâm, Triệu Việt Vương đã luận công phong thưởng cho các tướng; anh em họ Trương được phong thực ấp ở nhiều làng tại kinh Bắc là nơi dấy binh cũ hoặc là nơi tuyển quân,…

Năm 557, một tướng cũ cũng là em họ của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử đem quân đánh Triệu Việt Vương nhưng đánh mãi không thắng, bèn tìm cách giảng hòa rồi xin làm thông gia. Hai ông Trương Hống, Trương Hát khuyên vua nên từ chối nhưng vua không nghe. Hai ông liền xin từ quan cùng các em về làng làm ăn. Khi Lý Phật Tử bất ngờ đem quân đến đánh khiến Triệu Việt Vương thua trận phải nhảy xuống biển tự vẫn, Lý Phật Tử lên ngôi vua tự xưng là Hậu Lý Nam Đế biết các ông là tướng tài giỏi bèn cho người mời ra làm quan. Song các ông nhất lòng trung quân không theo mà nói rằng:

Tôi trung chẳng thờ hai vua, gái trinh chẳng đổi hai chồng, huống hồ ngươi là người bội nghĩa mà còn muốn khuất cái tiết bất di dịch này ư?

Biết không thể khuất phục được Lý Phật Tử lệnh truy bắt các ông khắp nơi. Các ông bàn nhau cùng đem gia quyến xuôi dòng sông Cầu, Đục thuyền tự vẫn để giữ trọn tấm lòng trung với vua Triệu Việt Vương. Nhân dân dọc theo sông cầu và các nơi các ông từng đóng quân đánh giặc đã vô cùng khâm phục, thương tiếc, lập đền thờ tôn làm thần. Có tới 370 ngôi làng, thôn ấp nằm dọc theo ba con sông cổ: sông Cầu, sông Thương, sông Cà Lồ thờ phụng, về cở bản mỗi  làng đêu có truyền thuyết, thần tích ghi chép về lai lịch, công trạng của Thánh Tam Giang với quê hương đất nước và dân làng./.

Tin, ảnh: Ngô Thế Hiếu - Bí thư đoàn TNCS Hồ Chí Minh

 

 

 

 

 

  

  

 

Bản đồ hành chính