di tích lịch sử

DI TÍCH CÁCH MẠNG KHÁNG CHIẾN TRUNG GIÃ - HUYỆN SÓC SƠN - TP Hà Nội

Di tích Cách mạng kháng chiến Trung Giã - Huyện Sóc Sơn - TP Hà Nội

 (Nơi diễn ra hội nghị quân sự Trung Giã từ ngày 4/7-27/7/1954)

 

I- TÊN GỌI

- Di tích cách mạng kháng chiến Trung Giã nơi diễn ra hội nghị quân sự Trung Giã tháng 7/1954.

Địa điểm Trung Giã diễn ra hội nghị quân sự (1954) nên có thể gọi là:

- Di tích cách mạng kháng chiến Hội nghị Quân sự Trung Giã tháng 7/1954.

Ngoài ra các nhà khoa học, các nhân chứng lịch sử còn gọi là:

Cuộc đàm phán về quân sự giữa Đoàn đại biểu Bộ tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam và đoàn đại biểu Bộ tổng chỉ huy các lực lượng Pháp ở Đông Dương diễn ra tại Trung Giã tháng 7/1954.

II- ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ - ĐƯỜNG ĐI ĐẾN DI TÍCH

1. Địa điểm phân bố:

Hội nghị quân sự Trung Giã diễn ra tại thôn Xuân Sơn, xã Trung Giã, huyện Đa Phúc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, ngoại thành Hà Nội.

Trung Giã là một trong 26 xã, thị trấn của huyện Sóc Sơn. Xã có địa giới nằm về phía Đông Bắc của huyện. Phía tây nam giáp xã Tân Hưng, Tân Minh, phía Tây giáp xã Hồng Kỳ, phía Bắc và Đông giáp các xã Hợp Thịnh, Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Ninh và xã Thuận Thành, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.

Huyện Đa Phúc thời Trần gọi là Tân Phúc, đời Lê đổi là Thiên Phúc, sau đó lại đổi thành huyện Tiên Phúc thuộc Châu Bắc Giang - Lộ Bắc Giang. Đầu thời Nguyễn đổi là Đa Phúc thuộc phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc. Năm 1831 thuộc tỉnh Bắc Ninh, năm 1903 thuộc tỉnh Phúc Yên. Năm 1913, Phúc Yên đổi thành đại lý Phúc Yên trực thuộc tỉnh Vĩnh Yên. Năm 1923 lập lại tỉnh Phúc Yên gồm phủ Đa Phúc, Yên Lãng và 2 huyện Kim Anh, Đông Anh.

Năm 1950 là tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1968 là tỉnh Vĩnh Phú. Năm 1977, Đa Phúc và Kim Anh hợp nhất gọi là huyện Sóc Sơn tỉnh Vĩnh Phú. Năm 1978, Sóc Sơn sáp nhập trở thành một huyện của ngoại thành Hà Nội.

2- Đường đi đến di tích:

Trung Giã là vùng đất nằm về phía Bắc thủ đô Hà Nội, cách trung tâm thủ đô khoảng 40 km. Để đến với di tích khách tham quan có thể đi bằng nhiều đường song gần và tiện lợi hơn cả là đi theo đường sau.

Từ Trung tâm thủ đô theo đường Trần Nguyên Hãn - Trần Quang Khải, qua cầu Chương Dương, Cầu Đuống rồi đi theo quốc lộ III, qua ngã ba Phủ Lỗ, ngã tư huyện Sóc Sơn, theo đường đi Thái Nguyên, qua trạm kiểm soát về Gò Sỏi đi khoảng 1 km đến ngã tư thôn Xuân Sơn thì rẽ trái, đi khoảng 300 m là đến di tích hội nghị quân sự Trung Giã.

Đến di tích, khách tham quan có thể sử dụng được tất cả các phương tiện giao thông đường bộ.

Hình ảnh: Cổng vào Di tích cách mạng kháng chiến "Hội nghị Quân sự" Trung Giã

 

III- SỰ KIỆN NHÂN VẬT LỊCH SỬ

Từ ngày quân và dân ta ở Nam Bộ với gậy tầm vông vót nhọn đứng lên đánh Pháp, bắt đầu cuộc kháng chiến đến ngày thắng lợi, quân dân ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng trưởng thành.

Trong chín năm tiến hành chiến tranh xâm lược, thực dân Pháp được đế quốc Mỹ hết sức giúp đỡ đã tung vào chiến trường Đông Dương mọi lực lượng và phương tiện chiến tranh có thể huy động được. Sự can thiệp của đế quốc Mỹ làm cho cuộc chiến tranh kéo dài và mở rộng thêm nhưng không sao cứu vẫn nổi. Thực dân Pháp ngày càng lún sâu vào tình thế phòng ngự bị động và chịu những thất bại ngày càng nặng nề. Các chủ trương, kế hoạch chúng tung ra liên tục bị phá sản.

Thắng lợi to lớn của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ làm nức lòng đồng bào và chiến sĩ cả nước và bạn bè khắp năm châu. Đó là đòn chí mạng giáng vào âm mưu kéo dài xâm lược và mở rộng chiến tranh của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, buộc đối phương phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán ở Giơnevơ và tạo thế mạnh cho các đoàn đại diện chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và các đoàn đại diện Chính phủ Liên Xô, Trung Quốc trong cuộc đấu tranh để đi tới giải pháp hoà bình trên toàn cõi Đông Dương. Thắng lợi trên cũng làm tăng thêm sự bất đồng, mâu thuẫn giữa nhân dân Pháp và những người thuộc phái chủ hoà với những kẻ ngoan cố chủ chiến trong giới cầm quyển Pháp; giữa những người có đầu óc thực tế với những kẻ cuồng chiến trong chính giới Mỹ.

Báo Nhân Đạo của Đảng Cộng sản Pháp số ra ngày 8/5/1954 viết: "Điện Biên Phủ, trung tâm trận chiến đấu lớn nhất. Sự thất thủ của pháo dài đã tỏ rõ tham vọng điên rồ của những kế hoạch xâm lược vào thời đại mà các dân tộc đã nắm chắc trong tay cuộc chiến đấu chính nghĩa vì độc lập... Không một sức mạnh nào và không một ai có thể bắt được cả một dân tộc đã vùng lên phải quỳ gối trở lại".

Ở tỉnh Thái Nguyên sau chiến thắng Điện Biên Phủ, cả vùng Định Hoá nhộn nhịp, phấn chấn. Cán bộ chiến sĩ nhân dân đi lại đông vui hẳn lên. Nhiều đơn vị quân ta từ rừng núi Tây Bắc tiến về trung du, đồng bằng.

Ngày 26 tháng 4/1954 Hội nghị Giơnevơ khai mạc và bàn giải pháp chính trị cho vấn đề Triều Tiên. Ngày 8/5/1954 đúng một ngày sau chiến thắng rạng rỡ Điện Biên Phủ của quân và dân ta Hội nghị Giơnevơ chuyển sang bàn vấn đề về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương. Tham dự hội nghị có đại diện của chín bên: Đoàn đại diện Liên Xô đứng đầu là Bộ trưởng ngoại giao Môtô lốp, đoàn đại diện Trung Quốc đứng đầu là thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao Chu Ân Lai; đoàn đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đứng đầu là phó thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao Phạm Văn Đồng; đoàn đại diện Pháp đứng đầu là Bộ trưởng ngoại giao Bidôn, đoàn đại diện Mỹ đứng đầu là thứ trưởng ngoại giao Smít, đoàn đại diện Anh đứng đầu là bộ trưởng ngoại giao Idơn cùng 3 đoàn đại diện của ngụy quyền Việt Nam, Campuchia, Lào.

Trong bốn phiên họp toàn thể ngày 8/5, ngày 10/5, ngày 12/5 và ngày 14/5, các đoàn đại diện Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Trung Quốc, Liên Xô... lần lượt đưa ra những đề nghị về giải pháp kết thúc chiến tranh ở Đông Dương nhưng vẫn chưa đi tới thoả thuận trên hai điểm cơ bản về chương trình nghị sự. Chủ trương của các đoàn Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc do Việt nam Dân chủ Cộng hoà đề nghị và được Liên Xô, Trung Quốc ủng hộ là giải quyết toàn diện cả 2 vấn đề quân sự và chính trị, giải quyết toàn bộ vấn để 3 nước Việt Nam, Campuchia, Lào. Chủ trương của bên kia do Pháp đề nghị là chỉ giải quyết vấn đề quân sự và tách vấn đề Lào, Campuchia khỏi Việt Nam. Đến phiên họp lần thứ 4 ngày 21/5, hai bên mới thoả thuận được theo đề nghị của trưởng đoàn Liên Xô là lấy 2 bản tham luận của đoàn Pháp và đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà làm cơ sở, tức là thảo luận trên cả 2 vấn đề quân sự và chính trị, trong đó vấn đề quân sự được thảo luận trước.Trong phiên họp lần thứ sáu ngày 25/5, trưởng đoàn Việt nam Dân chủ Cộng hoà đưa ra hai nguyên tắc cho vấn đề đình chiến: một là ngừng bắn hoàn toàn và đồng thời trên toàn cõi Đông dương; hai là điều chỉnh vùng trong mỗi nước, trong từng chiến trường trên cơ sở trao đổi đất đai để có thể mỗi bên có những vùng hoàn chỉnh và tương đối rộng, có điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế và quản lý hành chính trong mỗi vùng. Trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà còn để nghị đại diện các Bộ tổng tư lệnh có liên quan nghiên cứu tại chỗ những biện pháp ngừng bắn để chuyển tới hội nghị xem xét và thông qua. Đến phiên họp lần thứ bảy ngày 27/5, trưởng đoàn đại diện Pháp tán thành để nghị trên của đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà làm. Tại các phiên họp ngày 29/5 và 2/6/1954, đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đoàn đại biểu Pháp đã thoả thuận về việc đại diện Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và Bộ tổng chỉ huy Quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương gặp nhau tại chỗ ở Việt Nam song song với cuộc đàm phán ở Giơnevơ. Đại tướng Văn Tiến Dũng Trưởng đoàn Đại biểu Bộ Tổng tư lệnh quân đội ta tại Hội nghị quân sự Trung Giã kể: "Ngày 11/6/1954 phái viên Bộ tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và của Bộ tổng chỉ huy Quân đội viễn chinh Pháp gặp nhau ở Phủ Lạng Thương. Phía Pháp bày tỏ mong muốn sớm giải quyết vấn đề tù bình ốm đau, bị thương. Ngày 14/6 Bộ tổng tư lệnh ta gửi thông điệp cho Bộ tổng chỉ huy Pháp nói rõ: Ta sẵn sàng bàn về các vấn đề gửi thư từ, thuốc men cho tù binh bị thương và bị bệnh như hai bên đã thoả thuận ở Giơnevơ, Bộ tổng tư lệnh ta nhận thấy cần có cuộc gặp gỡ tại chỗ giữa đại diện hai bên để bàn không những vấn đề tù binh mà còn cả những vấn đề khác nữa". Trong bức thông điệp ta đề nghị sĩ quan liên lạc hai bên gặp nhau vào ngày 19/6 tại làng Ninh Liệt, cách huyện lỵ Đa Phúc 9 km về phía Bắc, trên đường số 3 từ Hà Nội đi Thái Nguyên, để thảo luận những thể thức cần thiết và tổ chức cuộc gặp gỡ đầu tiên của đại diện hai Bộ Tổng tư lệnh. Trong buổi gặp đó, sĩ quan liên lạc hai bên đều không mang vũ khí mà đem quốc kỳ của mình làm dấu hiệu. Mọi hoạt động quân sự của hai bên sẽ ngừng trong phạm vì bán kính 10 km, xung quanh làng Ninh Liệt, từ 0h đến 24h ngày 19/6/1954. Ngày 18/6/1954 Bộ Tổng chỉ huy Pháp nhận lời, cử sĩ quan liên lạc đến gặp ta. Đồng chí Trung tá Lê Minh Nghĩa (tức Lê Minh) được cử làm sĩ quan liên lạc tiếp xúc với phía Pháp, đồng chí Lưu Văn Lợi đi cùng làm phiên dịch. Đến 14h chiều ngày 19/6 hai bên đến chỗ hẹn. Sĩ quan liên lạc Pháp là thiếu tá Jacquin, khoảng 45 tuổi, hai bên trao đổi thống nhất các vấn đề sau: Địa điểm được chọn làm nơi tổ chức hội nghị giữa đoàn đại biểu Bộ tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và đoàn đại biểu Bộ Tổng chỉ huy quân đội viễn chính Pháp ở Đông Dương (Haut Commandement du Corps expéditionnaire en Indochine) là khu gò cao của xóm Xuân Sơn nay là thôn Xuân Sơn thuộc xã Trung Giã, huyện Đa Phúc (nay huyện là Sóc Sơn). Sở dĩ có sự lựa chọn này là bởi Trung Giã lúc đó nằm trong khu giáp ranh giữa vùng ta và vùng địch tạm chiến. Địa điểm diễn ra hội nghị nằm ở phía tây đường số 3, giữa dồn Pháp ở Núi Đôi và Phố Nỉ là vùng tự do của ta. Đây là địa điểm thuận tiện làm nơi họp Hội nghị quân sự, đẹp và dễ bảo vệ. Phía Pháp sẽ phụ trách làm hội trường, bố trí phòng họp. Nơi nghỉ của đoàn nào đoàn ấy làm. Tại khu vực hội nghị có lực lượng bảo vệ của hai bên, số lượng ngang nhau, trang bị nhẹ. Về quân sự, hai bên không hoạt động quanh khu vực hội nghị, ta ngừng phục kích đánh mìn từ cầu Đuống lên, Pháp đình chỉ ném bom bắn phá từ thị xã Thái Nguyên xuống. Chiếu 21/6/1954 hai sỹ quan liên lạc Việt Nam, Pháp bàn tiếp một số vấn đề khác; và Thống nhất ý kiến Hội nghị họp kín, các nhà báo chỉ dự buổi khai mạc với số lượng mỗi bên không quá 10 người. Việc công bố các nội dung phiên họp do hai bên thoả thuận. Ngôn ngữ dùng trong hội nghị là tiếng Việt và tiếng Pháp hai ngôn ngữ có giá trị ngang nhau mỗi bên có trách nhiệm dịch tiếng mình ra tiếng bên kia trong khi đàm phán. Chương trình khai mạc Hội nghị. Danh nghĩa của đoàn Việt Nam là đoàn đại biểu Bộ Tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam, đoàn đại diện Pháp là đoàn đại biểu Bộ Tổng chỉ huy các lực lượng liên hiệp Pháp. Cuối tháng 6/1954 hội trường được xây dựng xong. Đó là căn nhà lắp ghép lợp tôn, có mắc điện, mắc quạt, nhà nghỉ của đoàn Pháp là căn nhà nhỏ hơn ở gần hội trường, Nhà của quân cảnh Pháp là nhà bạt, nhà nghỉ của đoàn ta và đơn vị bảo vệ của ta là nhà lá đơn sơ nhưng thoáng mát. Trong bài báo của nhà văn, nhà báo Hồng Hà in trên báo An ninh Thế giới ngày 1/8 và 8/8/2001, người có mặt trong đoàn đại biểu của ta họp tại Trung Giã đã viết lại: “Một ngày tháng 6/1954, tôi được cơ quan báo cử đi công tác đặc biệt. Khoác ba lô lội suối, nước dâng cao sau trận mưa đêm. Tôi đến Bản Cái thuộc huyện Định Hoá. Trong rừng cây um tùm ẩm thấp là những nếp nhà khang trang ngăn nắp. Đây là đại bản doanh của Bộ Tổng tham mưu quân đội ta. Đồng chí Văn Tiến Dũng, tổng tham mưu trưởng, triệu tập cuộc họp cạnh hội trường lớn, mời tôi đến dự. Đồng chí thông báo thực hiện chỉ thị của Hồ Chủ Tịch và Bộ chính trị Trung ương Đảng, Bộ tổng tư lệnh cử đoàn đại biểu đi đàm phán với đoàn đại biểu Bộ tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương. Đoàn đại biểu ta gồm: Thiếu tướng Văn Tiến Dũng Tổng tham mưu trưởng quân đội ta trưởng đoàn; đại tá Song Hào, chính uỷ đại đoàn 308 phó đoàn; đại tá Lê Quang Đạo - Cục trưởng Cục tuyên huấn; trung tá Lê Minh phụ trách Cục Quân huấn; Trung tá Nguyễn Văn Long ở Cục tác chiến. Phiên dịch của đoàn là thiếu tá Lưu Văn Lợi. Phụ trách công tác thông tin, báo chí của đoàn là nhà báo Đào Tùng và Hồng Hà, làm việc dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đại tá Lê Quang Đạo. Ngoài ra còn có Thiếu tá Vũ Xuân Vinh, thư ký của đoàn, đại uý Trần Tuấn Anh, thư ký ghi tốc ký và một số sĩ quan khác..."

Sáng ngày 4/7/1954, đoàn ta đến Hội nghị quân sự Trung Giã trên mấy chiếc xe Jeep đều là xe chiến lợi phẩm. Tất cả mọi người đều mặc quân phục “đại quân”, đội mũ cát đính quân hiệu viền vàng, đi giày vải. Đồng chí Văn Tiến Dũng, Song Hào, Lê Quang Đạo mặc bộ kaki màu sám mới may theo kiểu đại quân, đi giày da. Xe đồng chí Văn Tiến Dũng đi đầu ghi dòng chữ “Xe của tướng De Castries chiến lợi phẩm Điện Biên Phủ” - Nhân dân phố Ni và xã Trung Giã đứng hai bên đường vui mừng reo hò chào đón đoàn. Tất cả các đồng chí trong đoàn đều xúc động, tự hào được đại diện cho quân đội và nhân dân đã chiến thắng quân Pháp, kẻ đã thống trị dân tộc ta gần 100 năm, kẻ đã gây nên bao đau thương cho nhân dân ta trong suốt 9 năm chiến tranh xâm lược.

Trong bài về "Hội nghị quân sự Trung Giã” của Đại tướng Văn Tiến Dũng có viết: "Tôi đi trên chiếc xe đầu có ghi dòng chữ xe của tướng De Castries, chiến lợi phẩm Điện Biên Phủ. Đoàn xe đi đến hội trường giữa tiếng hoan hô nồng nhiệt của nhân dân địa phương đứng hai bên đường. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ quân ta đang khuyếch trương chiến quả với tư thế của người chiến thắng. Từ sau ngày 7/5 trên các chiến trường quân và dân ta liên tiếp giành được nhiều thắng lợi lớn. Bước vào hội trường hội đàm với đối phương, chúng tôi nhận thức rõ mình đang là người chiến thắng. Với tôi, từ một thanh niên từng sống dưới ách nô lệ của thực dân Pháp, giác ngộ cách mạng, tham gia đấu tranh trong phong trào công nhân lao động Hà Nội rồi gia nhập quân đội chiến đấu trên các chiến trường cho đến ngày kháng chiến chống thực dân Pháp đang dần đến thắng lợi cuối cùng, thì được đại diện cho một quân đội anh hùng của nhân dân anh hùng đi đàm phán với đại diện quân Pháp trong lòng vừa tự hào vừa thấy trách nhiệm của mình thật to lớn".

Đúng 8h sáng ngày 4/7/1954 hai đoàn đại diện của hai bên bước vào phòng họp. Hai sĩ quan liên lạc của hai bên Trung tá Lê Minh và Thiếu tá Jacquin giới thiệu 2 trưởng đoàn và đại biểu chính thức của đoàn. Phái đoàn của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam gồm: Thiếu tướng Văn Tiến Dũng - trưởng đoàn; Đại tá Song Hào; Đại tá Lê Quang Đạo; Trung tá Lê Minh; Trung tá Nguyễn Văn Long; Phiên dịch - Thiếu tá Nguyễn Văn Lê (Lưu Văn Lợi); Thư ký - Thiếu tá Vũ Xuân Vinh, nhà báo Đào Tùng, Hồng Hà và các đồng chí là chuyên viên, bác sĩ, nhiếp ảnh... Phái đoàn Bộ Tổng chỉ huy Quân đội viễn chinh Pháp Lennuyeux; Trung tá LeRay; Thiếu tá Jacquin; Trung tá Trần Văn Chính; Thiếu tá Nguyễn Phước Đăng, Đại uý Nguyễn Bưu; Phiên dịch - Đại uý Lowmann và các chuyên viên, bác sĩ, nhà báo, điện ảnh...

Sau đó Thiếu tướng Văn Tiến Dũng đọc bài diễn văn khai mạc, nêu lên lý do của Hội nghị Quân sự Trung Giã là để thực hiện thoả thuận của Hội nghị các ngoại trưởng ở Giơnevơ là đại diện Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và đại diện Bộ Tổng chỉ huy Quân đội viễn chinh Pháp cần gặp nhau tại chỗ, để nghiên cứu các vấn đề liên quan đến việc thực hiện ngừng bắn, đình chiến và lập lại hoà bình ở Đông Dương. Cuộc gặp nhau tại chỗ là bổ ích và cần thiết, đánh dấu một bước tiến trong việc giải quyết cuộc chiến tranh ở Đông Dương bằng phương pháp thương lượng. Sau khi điểm lại cuộc kháng chiến anh dũng của quân và dân ta trong 9 năm qua; nguyện vọng tha thiết của nhân dân Việt nam và nhân dân các nước Lào, Campuchia; Thiếu tướng Văn Tiến Dũng nói: đoàn đại diện ta nhận rõ nhiệm vụ quan trọng của Hội nghị và sẽ hết sức cố gắng để làm cho hội nghị đạt kết quả tốt.

Ngay sau phiên họp, đại tá Lennuyeux đã từng là tuỳ viên quân sự Nhật Bản, gặp riêng đồng chí Văn Tiến Dũng nói: “Chúng ta đều là quân nhân,

chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào về chiến thắng của mình. Nhưng đã ngồi vào bàn đàm phán dòng chữ trên xe ôtô của ngài làm chúng tôi rầu lòng lắm". Buổi chiều chiếc xe đã được che bằng một băng vải kẻ khẩu hiệu hoà bình. Lennuyeux đã cảm ơn đồng chí Văn Tiến Dũng về cử chỉ lịch sự đó.

Sau buổi khai mạc hội nghị, hai bên bàn ngay đến vấn đề mà Pháp rất quan tâm là việc trao trả tù binh bị ốm, bị thương và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho tù binh. Đây không phải là một vấn để rắc rối nên đến ngày 10/7 hai bên đã đi đến ký kết biên bản chung và họp báo công bố lên 4 nội dung đã được thoả thuận: 1- Hai bên tiến hành trao trả cho nhau dần dần từng đợt tù binh bị thương, ốm đau trước hết là những người bị thương nặng; 2- Hai bên cùng cho tù binh được hưởng chế độ ăn mặc như chế độ quân nhân đang tại ngũ của mỗi bên; 3- Hai bên cam kết ngăn cản mọi hành động làm thương tổn tinh thần và thể chất của tù binh, không dùng tù binh vào việc quân sự.... 4- Hai bên gửi thuốc và tạo điều kiện thuận lợi để chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần cho tù binh. Đến ngày 14/7 sẽ tiến hành trao trả tù bình quân đội Pháp ở ba nơi Việt Trì, Thanh Hoá, Qui Nhơn.

Từ ngày 12/7 tiểu ban nghiên cứu vấn để ngừng bắn bắt đầu làm việc. Đồng chí Song Hào phụ trách tiểu ban này, đồng chí Nguyễn Văn Long, Lê Minh Nghĩa giúp việc. Trung tá LeRay đại diện cho phía Pháp bắt đầu bàn bạc. Theo ý định của trên nhiệm vụ của đoàn lúc này là tìm hiểu ý đồ và phương án của Pháp. Còn về phía ta chưa nên đưa ra một phương án nào và cũng không để lộ một ý đổ nào, vì còn đợi kết quả đàm phán ở Giơnevơ. Các đồng chí trong Tiểu ban tìm cách kéo dài cuộc thảo luận, trước hết cần xác định hình thái bố trí của hai bên trên chiến trường xem vùng nào thực sự là do mỗi bên kiểm soát hoàn toàn, vùng nào đang là tranh chấp. Phía Pháp không đồng ý với cách định nghĩa đó của ta vì theo đó ở Bắc Bộ Pháp chỉ kiểm soát vài thành phố lớn, còn 2 tuyến đường số 1 và số 5 đều thuộc vùng tranh chấp. Cuộc tranh luận kéo dài hơn 1 tuần, phía Pháp tỏ ra nóng ruột, khó chịu nhưng phía ta vẫn kiên trì quan điểm của mình.

Ngày 20 tháng 7 năm 1954, đồng chí Nguyễn Văn Long, phó trưởng phòng tác chiến Cục tác chiến và là người phụ trách bộ phận nghiên cứu của đoàn nói với đồng chí Lê Minh: Trên đã quyết định ký hiệp định Giơnevơ. Chiến tranh sẽ chấm dứt nhưng nước ta tạm thời bị chia cắt ở vĩ tuyến 17, sau hai năm sẽ tổng tuyển cử để thống nhất đất nước.

Theo tài liệu của Đại tướng Văn Tiến Dũng có ghi: "Ngày 20/7/1954 Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Đông Dương được ký kết ở Giơnevơ. Hội nghị quân sự Trung Giã phải giải quyết gấp một số việc để triển khai thi hành Hiệp định.

Ngày 22/7, hai trưởng đoàn gặp nhau ở Trung Giã để bàn việc thực hiện Hiệp định Giơnevơ. Hai bên thoả thuận được nhiều điểm: Không tiến hành các cuộc hành quân qui mô, không đánh mìn phá hoại các đường giao thông, máy bay Pháp đình chỉ các cuộc ném bom, bắn phá, dùng bom napan... Ta thông báo cho phía Pháp biết ngày 30/7/1954 ta sẽ trao trả cho họ ở Thanh Hoá 150 tù binh bị thương và ở Việt Trì 120 tù binh.

Hai bên chuẩn bị tiến hành hiệp nghị về gỡ thế cài răng lược trong 15 ngày sau đình chiến. Đoàn đại diện của ta phân công đồng chí Lê Minh phụ trách đàm phán trong tiểu ban về nội dung này. Ngày 25/7 đôi bên đi đến ký kết hiệp nghị về vấn đề này. Trong hồi ký của Đại tá Lê Minh có viết: "Khi thảo luận chỉ có một vấn đề phải tranh luận là đối với các lực lượng phi chính qui: Pháp muốn các lực lượng phi chính quy của ta rút khỏi vùng họ tập kết tạm thời. Cuối cùng đi đến nhất trí là các lực lượng phi chính qui ngừng bắn tại chỗ, tiếp tục làm ăn theo nghề nghiệp của mình, không mang theo vũ khí.

Ngày 23/7, Đại tướng tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra mệnh lệnh ngừng bắn ở Bắc Bộ từ 7 giờ sáng ngày 27/7/1954, ở Trung bộ ngày 1/8, ở Nam bộ ngày 11/8. Đoàn ta yêu cầu Pháp giúp phương tiện cho ba đoàn sĩ quan đi truyền đạt mệnh lệnh ngừng bắn cho ba chiến trường: Bình Trị Thiên, Liên khu 5, Nam Bộ và chở cán bộ ta đi rải truyền đơn in lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch. Trong quá trình thực hiện ngừng bắn, Pháp rút quân khỏi các vùng đóng quân tạm thời ở đồng bằng Bắc Bộ dành cho họ rất vội vàng và trước thời hạn qui định vì chúng sợ sau khi ký Hiệp định Giơnevơ miền Bắc hoàn toàn giải phóng, nếu không rút nhanh, nguy binh người miền Bắc sẽ bỏ ngũ nhiều và trên thực tế con số bỏ ngũ khá lớn.

Nhìn chung ở cả 3 chiến trường mệnh lệnh ngừng bắn được thi hành nghiêm chỉnh. Về phía ta trong cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, các phương tiện thông tin liên lạc thiếu, nhưng mệnh lệnh ngừng bắn được thi hành đúng thời hạn được, điều đó biểu thị lòng tin tưởng tuyệt đối vào Hồ Chủ Tịch và Ban chấp hành trung ương Đảng, biểu thị ý thức tổ chức cao của lực lượng vũ trang ta. Về phía Pháp sau 9 năm chiến tranh lại ở thế thua, họ không còn thái độ về hành động ngang ngược như hồi ký Hiệp định sơ bộ (ngày 6/3/1946) và Tạm ước 14/9/1946 đòi quân đội ta hạ vũ khí mới có hoà bình.

Trong cuốn Quân lực Việt Nam cộng hoà trong giai đoạn hình thành 1946 - 1955 do phòng 5 Bộ Tổng tham mưu Nguy quyền Sài Gòn 1972, trang 203 có nhận xét: "... Chính hội nghị Trung Giã trong thời gian đó đối với Chính phủ quốc gia là một điều tủi nhục. Hội viên chính của hội nghị là Pháp và Việt Minh...". Trong khi Pháp có thái độ vội vã trong các buổi họp, Việt Minh lấy thái độ ung dung thong thả để tạo thêm ưu thế cho họ...".

Tại phiên họp ngày 27/7/1954 ở Trung Giã trước đông đủ thành viên, chuyên viên hai đoàn đàm phán, các nhà báo Việt Nam và quốc tế dự, Thiếu tướng Văn Tiến Dũng đọc diễn văn bế mạc hội nghị quân sự Trung Giã. Lúc này tiếng súng chiến tranh ở Bắc Bộ đã ngừng. Hoà bình bắt đầu lập lại ở Đông Dương, đem lại nỗi vui mừng cho nhân dân các nước Việt Nam, Lào, Campuchia, nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Ta và Pháp thoả thuận chuyển hội nghị Trung Giã thành Uỷ ban liên hợp Trung ương thi hành hiệp định Giơnevơ. Đoàn ta trong Uỷ ban vẫn do Thiếu tướng Văn Tiến Dũng dẫn đầu. Đoàn Pháp do Thiếu tướng Hãngri Đentây vừa ở hội nghị Giơnevơ về làm trưởng đoàn Pháp, đại tá Lennuyeux làm phó đoàn. Đentây nguyên là Cục trưởng Cục tác chiến Bộ Tổng chỉ huy Quân đội Pháp ở Đông Dương, rất thông thạo các chiến trường Việt Nam. Ông là người thay mặt Bộ Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương tại Giơnevơ cùng thứ trưởng Tạ Quang Bửu thay mặt Bộ Quốc phòng nước ta ký hiệp định Giơnevơ về đình chiến ở Việt Nam. Uỷ ban Liên hợp Trung ương tạm thời làm việc ở Trung Giã và đã giải quyết rất cụ thể nhiều vấn đề quan trọng do Hiệp định Giơnevơ đặt ra như: trao trả tù binh, định quy chế khu phi quân sự, cấm đưa vũ khí mới vào Việt Nam, tiếp quản Hà Nội và Hải Phòng...

Giữa lúc Hội nghị quân sự Trung Giã từ ngày 15/7 đến 17/7/1954, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 họp mở rộng dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội nghị khẳng định "tình thế trong nước phát triển ngày càng có lợi cho ta; địch đang gặp những khó khăn lớn tuy chúng vẫn không ngừng giãy giụa"... và xác định "Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới và hiện đang trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương". Hội nghị cũng kêu gọi: "... Toàn Đảng, toàn dân hãy thống nhất tư tưởng và hành động, đoàn kết nhất trí hơn nữa chung quanh Hồ Chủ Tịch và Trung ương, tuyệt đối tin tưởng vào Hồ Chủ Tịch và Trung ương kiên quyết vượt mọi khó khăn ra sức phấn đấu để bất cứ hoà hay là đánh ta cũng chủ động và thắng lợi".

Tóm lại, hội nghị quân sự Trung Giã diễn ra trong 24 ngày, đã thể hiện ý định của hai bên là muốn cuộc đàm phán hoà bình và có giá trị thực tế ở chỗ đại diện hai Bộ Tổng tư lệnh tiếp xúc đều đặn với nhau tại chỗ trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Đó cũng là điểu kiện triển khai thi hành Hiệp định Giơnevơ được kịp thời, tạo cơ sở tốt cho việc thành lập và hoạt động của các Uỷ ban liên hợp với trách nhiệm bảo đảm thi hành Hiệp định đình chỉ chiến sự. Ngày 29/7/1954 Uỷ ban liên hợp trung ương bắt đầu làm việc và sau 15 ngày ngừng bắn có hiệu lực, trụ sở Uỷ ban liên hợp trung ương được đặt tại Phủ Lỗ, trong đồn cũ của địch. Uỷ ban làm việc nơi này đến khi Pháp rút khỏi Hà Nội.

Trước và trong thời gian hội nghị quân sự làm việc, tỉnh Vĩnh Phúc trực tiếp là huyện Đa Phúc (nay là Sóc Sơn) được giao nhiệm vụ bảo vệ và phục vụ hội nghị. Công tác bảo vệ và phục vụ hội nghị được đảm bảo hết sức chặt chẽ và tuyệt đối an toàn. Những cố gắng của quân, dân Trung Giã đã tạo điều kiện thuận lợi, góp một phần không nhỏ vào thắng lợi của Hội nghị quân sự Trung Giã.

IV- LOẠI HÌNH DI TÍCH

Căn cứ vào nội dung sự kiện lịch sử, căn cứ Luật di sản văn hoá được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2001, di tích cách mạng Hội nghị quân sự Trung Giã được xếp vào loại hình di tích lưu niệm sự kiện lịch sử về chặng đường đấu tranh ngoại giao của nước ta thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.

V- KHẢO TẢ DI TÍCH

Hội nghị quân sự Trung Giã được tổ chức trong 24 ngày của tháng 7/1954 trên khu gò cao của thôn Xuân Sơn, xã Trung Giã. Theo lời kể hồi ký của những người có mặt trong thời gian diễn ra hội nghị và những bức ảnh tư liệu hiện lưu giữ tại Việt Nam thông tấn xã thì địa điểm diễn ra hội nghị mới được xây dựng trên khu đất rộng, có hàng rào thép gai bảo vệ.

Hội nghị được diễn ra tại nhà Hội trường do người Pháp chịu trách nhiệm xây dựng. Hội trường được làm theo lối khung sắt lắp ghép, mái lợp tôn, tường ghép tôn lửng, bên trên để thoáng làm cửa lùa. Cửa ra vào làm ở chính giữa. Nhà có quạt máy, đèn điện chạy máy nổ. Trong hội trường kẻ hai dãy bàn hình chữ nhật sát nhau làm bàn hội nghị, một bên là đoàn đại diện Pháp và một bên là đoàn đại biểu quân đội ta, phía sau sát tường hồi kê một dãy ghế dành cho các nhà báo ngồi.

Nhà của đại biểu quân đội Pháp bao gồm có nhà đoàn họp và nhà quân đội Pháp cũng được lợp tôn. Quân cảnh, phóng viên báo chí của đoàn Pháp đều ở trong các lều bạt, tất cả đều nằm ở phía Nam khu hội trường. Trong các nhà đều có đủ các trang thiết bị như: bàn ghế, ấm chén, ca men....

Khu nghỉ của đoàn đại biểu Quân đội nhân dân Việt Nam ở phía Bắc hội trường, có các căn nhà như nhà đoàn họp, nhà nghỉ, nhà dành cho đoàn báo chí. Nhà đoàn họp có treo cờ đỏ sao vàng, dưới có treo ảnh Bác Hồ...các nhà đều có qui mô nhỏ, làm bằng tre nứa, mái lợp lá cọ, rất thoáng mát trong đó có để các bàn ghế bằng tre gỗ có ấm pha trà Thái Nguyên, bao thuốc lá Sầm Sơn...... Trong khu vực này còn có khu đất được san lấp làm sân bóng chuyển, khu để xe ôtô...

Khu vực diễn ra hội nghị Trung Giã hiện nay được quy hoạch rộng khoảng 15.000 m2, không có dân cư ở rất thuận tiện cho việc khoanh vùng và cắm mốc giới di tích. Uỷ ban nhân dân huyện Sóc Sơn cùng chính quyền và nhân dân xã Trung Giã đã đề nghị các cấp và cơ quan chuyên ngành lập dự án trùng tu tôn tạo di tích cách mạng này.

VI. GIÁ TRỊ CỦA DI TÍCH

Hội nghị quân sự Trung Giã nằm trong khuôn khổ cuộc đấu tranh ngoại giao mà đỉnh điểm là Hiệp định Giơnevơ về kết thúc chiến tranh lập lại hoà bình trên toàn cõi Đông Dương. Thắng lợi của mặt trận đấu tranh này đã góp phần đánh bại thực dân Pháp đem lại hoà bình, độc lập tự do cho dân tộc. Giành được thắng lợi lịch sử, lập nên được chiến công hiển hách đó là nhờ có sự chỉ đạo sáng suốt và tài tình của Đảng và Bác Hồ. Đường lối kháng chiến đúng đắn và khoa học của Đảng vạch ra đã thấm sâu vào quần chúng trở thành một lực lượng vật chất lớn mạnh, làm cho kẻ thù dù đông quân, nhiều súng cũng không thể phá vỡ được. Toàn dân đoàn kết một lòng, đem hết tinh thần lực lượng ra thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng ta, của Hồ Chủ Tịch "Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Mỗi người dân Việt Nam cũng như mọi người dân Sóc Sơn một lòng kiên quyết hy sinh để đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.

Cuộc đàm phán giữa quân đội Việt Nam và quân đội Pháp được diễn ra ở Trung Giã, nơi có truyển thống đấu tranh cách mạng và có vị trí địa lý là vùng đồi núi trung du, cửa ngõ phía Bắc thủ đô Hà Nội, tiếp giáp với căn cứ Việt Bắc đã tạo thành một mối liên hoàn. Mặc dù quân Pháp lập nhiều vành đai trắng, cửa nhà, thóc lúa của nhân dân bị cướp phá nặng nề song nhân dân nơi đây đã nêu cao tinh thần chiến đấu, xả thân vì độc lập tự do, bảo vệ an toàn cho cuộc đàm phán đi đến thành công.

Hội nghị quân sự Trung Giã thành công, lệnh ngừng bắn đã được thực hiện trên toàn Đông Dương, bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Campuchia, Lào và bộ đội ta ở nam vĩ tuyến 17 lần lượt chuyển quân ra Bắc tập kết. Việc chuyển quân tập kết được tiến hành đúng yêu cầu, đúng qui định, thể hiện tính thần kỷ luật, tinh thần đoàn kết quân dân, tình cảm quốc tế trong sáng của quân đội ta, tình đoàn kết gắn bó của lực lượng cách mạng và nhân dân 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia anh em. Ngày 10/10/1954 thời hạn quân Pháp tập kết ở Hà Nội đã hết, Đại đoàn 308 tiến vào tiếp quản Thủ đô Hà Nội, cùng Đảng bộ, Uỷ ban quân chính và nhân dân thành phố chuẩn bị đón chào Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ kháng chiến chính thức rời căn cứ địa Việt Bắc về lại Thủ đô Hà Nội.

Thành công của Hội nghị Quân sự Trung Giã cũng là thắng lợi của việc thực hiện Hiệp định Giơnevơ, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời, chia đất nước ta làm hai miền. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Từ đỉnh cao thắng lợi này toàn Đảng, toàn dân ta bước vào một thời kỳ đấu tranh mới, thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thời kỳ chống Mỹ cứu nước vĩ đại của cả dân tộc.

Trong lịch sử đấu tranh và bảo vệ độc lập dân tộc, bài học về kết thúc chiến tranh bằng ngoại giao, đàm phán hoà bình đã được chúng ta thực hiện một cách tài tình. Gần 600 năm về trước tại một địa điểm ở phía nam Kinh thành Thăng Long đã diễn ra hội thể Đông Quan buộc quân xâm lược nhà Minh phải rút quân về nước. Tuy chỉ trong khuôn khổ một hội nghị quân sự được tiến hành theo quyết định của Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương, Hội nghị quân sự giữa đoàn đại biểu Bộ tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam và đại diện Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương họp tại Trung Giã từ ngày 4 đến 27/7/1954 để bàn bạc và đưa ra những đề nghị, biện pháp thực hiện những vấn đề quân sự mà hội nghị Giơnevơ đã thoả thuận, giải quyết những vấn đề khác do tình hình cụ thể, tại chỗ đặt ra (tù binh, thực hiện ngưng bẩn, điều chỉnh khu vực tập kết quân đội, Uỷ ban Liên hiệp quân sự hai bên...) Hội nghị Trung Giã có ý nghĩa lịch sử lớn, góp phần vào thắng lợi oanh liệt của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Phải là những người trong cuộc mới hiểu rõ ý nghĩa, thắng lợi của hội nghị thì mới có suy nghĩ: “Chúng tôi rời Trung Giã, lưu luyến chia tay đồng chí, đồng bào địa phương đã tận tình giúp đỡ, bảo vệ, động viên đoàn đàm phán ta. Ngước nhìn núi Sóc sừng sững gần Trung Giã, chúng tôi hướng về đến thờ Phù Đổng Thiên Vương, vị anh hùng đời Hùng Vương thứ 6 đã tiêu diệt giặc Ân xâm lược, giải phóng quê hương. Gò Xuân Sơn, xã Trung Giã hôm nay cùng chứng kiến sự thất bại trong chiến tranh xâm lược Việt Nam của một trong những đế quốc hùng mạnh nhất thế kỷ XX (Lời nhà báo Hồng Hà). Như thế, nơi diễn ra hội nghị Trung Giã là di tích, địa điểm lưu niệm sự kiện lịch sử quan trọng của Thủ đô, của đất nước.

Nối tiếp truyển thống chiến đấu của dân tộc, gần 50 năm qua Đảng bộ và nhân dân Đa Phúc (nay là Sóc Sơn) nói chung, Đảng bộ và nhân dân xã Trung Giã nói riêng tiếp tục đoàn kết, chiến đấu, xây dựng và trưởng thành cùng toàn Đảng, toàn dân cả nước lập nên nhiều thành tích và thắng lợi huy hoàng. Trong xã có một gia đình có công với nước, 186 liệt sĩ là con em của địa phương đã hy sinh trên khắp các chiến trường, nhiều thương binh và bệnh binh... Vinh dự vào năm 1999 Trung Giã được đón danh hiệu đơn vị Anh hùng do Nhà nước phong tặng.

Di tích cách mạng kháng chiến Trung Giã sẽ góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu lịch sử của nước nhà, giáo dục truyền thống yêu nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thủ đô Hà Nội đặc biệt là thế hệ trẻ biết trân trọng và ghi nhớ công lao của các thế hệ cha anh đi trước, nâng cao lòng tự hào dân tộc và truyền thống cách mạng của quê hương, đất nước./.